Đảm bảo công bằng khi đánh giá cuối năm



Một số kinh nghiệm đảm bảo yếu tố công bằng qua các kỳ đánh giá cuối năm áp dụng cho phòng ban và cấp quản lý.

Yếu tố thứ nhất là các giám đốc điều hành (CEO) thường bị tác động bởi kết quả kinh doanh cụ thể. Khi nói hoàn thành công việc thì doanh số, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác thường thể hiện rõ ràng. Trái lại, các hoạt động hỗ trợ thường không thể hiện rõ ràng như vậy.

Ví dụ, doanh thu có đạt được hay không phụ thuộc vào nhân sự thực hiện tốt công tác đào tạo, phát triển và động viên nhân viên; dịch vụ khách hàng và kho vận thực hiện tốt các hoạt động hỗ trợ; phòng kế toán đưa ra các chính sách công nợ hợp lý đảm bảo doanh số tốt cho bán hàng, giảm thiểu nợ phải thu.

Tất cả các hoạt động đều được kết nối qua chuỗi giá trị trong kinh doanh. Phòng nhân sự và CEO cần phân tích rõ ràng và cụ thể, nhằm đánh giá đúng vai trò đóng góp của các bộ phận hỗ trợ. Phòng nhân sự cần thực hiện lượng hóa các giá trị do bộ phận hỗ trợ đem lại cho công ty. Các giá trị sau khi lượng hóa sẽ phản ánh cụ thể tầm quan trọng của bộ phận hỗ trợ so với bộ phận kinh doanh.

Yếu tố thứ hai là nguồn lực tiêu tốn của công ty. Phòng bán hàng có thể đạt doanh thu rất tốt, nhưng CEO cần cân nhắc lại các nguồn lực mà phòng bán hàng sử dụng như tỷ lệ giảm giá, chi phí marketing, số lượng nhân lực sử dụng. Phòng bán hàng có thể rất thành công, nhưng nếu chiết khấu cho khách hàng lớn thì kết quả cũng không thể nào đánh giá tốt được.

Tương tự, các CEO cũng cần cân nhắc tới số lượng nhân viên sử dụng hoặc chi phí marketing phòng bán hàng sử dụng trong năm. Một phương pháp đảm bảo tính công bằng trong các trường hợp này là sử dụng các chỉ tiêu đánh giá giữa đầu ra/ đầu vào hoặc hiệu số giữa doanh thu và chi phí. Các chỉ số như doanh thu/số lượng nhân viên, doanh thu/tổng chi phí, lợi nhuận thực (doanh thu trừ chi phí và các khoản phải thu) sẽ thể hiện rõ năng lực và khả năng hoàn thành công việc của các phòng ban. Điều này càng quan trọng nếu trong công ty có nhiều bộ phận bán hàng cho các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Yếu tố tiêu tốn nguồn lực sẽ là yếu tố quyết định thứ hai, sau lợi nhuận, để đánh giá chính xác kết quả kinh doanh.

Yếu tố thứ ba, đó là các thay đổi trên thị trường kinh doanh có thể có tác động âm hoặc dương tới kết quả kinh doanh. Chẳng hạn, giám đốc kinh doanh địa ốc trong năm 2012 bán được 10% doanh số được giao. Kết quả đó nếu đánh giá trên tổng thể là rất kém, nhưng nếu nhìn nhận trong toàn cảnh bức tranh của ngành địa ốc thì lại là con số ấn tượng.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Yếu tố thứ tư là tư duy thực dụng của các cấp quản lý. Các cấp quản lý thông thường tập trung vào các chỉ tiêu kinh doanh để đạt thưởng và các quyền lợi cuối năm. Trưởng phòng bán hàng sẽ cắt bỏ các chi phí về dịch vụ và đào tạo nhằm đẩy doanh thu tốt hơn. Trưởng phòng kỹ thuật sẽ tập trung vào công tác xử lý các vụ việc thay vì tiến hành đào tạo nâng cao năng lực cho phòng ban. Tư duy thực dụng sẽ đem lại những kết quả có vẻ tốt, nhưng lại ẩn chứa những rủi ro hệ thống cho công ty. Phòng bán hàng có thể có doanh số tốt, song bản thân họ tạo ra các sức ép cho phòng sản xuất, dịch vụ khách hàng và kế toán để đảm bảo quyền lợi của họ - doanh số. Tư duy thực dụng đem lại kết quả tốt cho từng phòng, ban cụ thể nhưng làm giảm sút hiệu quả và hiệu năng của toàn công ty.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại long biên Yếu tố cuối cùng, đó là năng lực vận hành. Để có một kết quả tốt và bền vững, các cấp quản lý cần một thời gian cụ thể để nâng cao năng lực vận hành. Giám đốc bán hàng phải nâng cao năng lực bán hàng, quy trình bán hàng, danh sách khách hàng, hệ thống dịch vụ. Xây dựng các năng lực đó đòi hỏi một thời gian nhất định. Các CEO và phòng nhân sự cần xác định rõ các kết quả về năng lực do cấp quản lý thực hiện trong năm. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp, các kết quả năng lực này không được tính tới, do công ty quá thực dụng. Nói cách khác, kết quả đánh giá cần phải tập trung cả hai mảng là kết quả kinh doanh và các năng lực vận hành.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Theo Baodautu

[Read More...]


Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập được hoàn thiện



Bộ Tài chính đang tổ chức lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập để trình Chính phủ ban hành. Nghị định quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập, hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả, mức phạt, thẩm quyền xử phạt.

Giả mạo, khai man chứng từ kế toán phạt từ 20- 30 triệu đồng

Dự thảo Nghị định quy định rõ các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và mức xử phạt trong lĩnh vực kế toán. Theo đó, phạt tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Lập chứng từ kế toán không đầy đủ các nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật về kế toán; Tẩy xoá, sửa chữa chứng từ kế toán; Ký chứng từ kế toán không đúng với quy định về bố trí chữ ký của các chức danh đối với từng loại chứng từ kế toán.

Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Giả mạo, khai man chứng từ kế toán; Thoả thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man chứng từ kế toán; Lập chứng từ kế toán có nội dung các liên không giống nhau trong trường hợp phải lập chứng từ kế toán có nhiều liên cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh… Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi bán hàng không lập hoá đơn bán hàng theo quy định.

Không có Giấy chứng nhận kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập có thể bị phạt 100 triệu đồng

Đối với hành vi vi phạm quy định về hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức kiểm toán thực hiện một trong các hành vi vi phạm như không nộp trả Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán cho cơ quan có thẩm quyền khi có quyết định thu hồi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Không làm thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán khi có thay đổi phải điều chỉnh theo quy định; hoặc làm mất, làm hỏng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán nhưng không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại theo quy định.

Hành vi giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Cho thuê, cho mượn, cầm cố Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000.

Có thể phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với tổ chức kiểm toán vẫn tiếp tục kinh doanh các dịch vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Kiểm toán độc lập khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán.

Đối với hoạt động của DN kiểm toán, chi nhánh DN kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam nếu có hành vi vi phạm có thể bị phạt từ 20 triệu đồng đến 80 triệu đồng.

Phải có nghĩa vụ thông báo, báo cáo về Bộ Tài chính

Dự thảo Nghị định quy định: Cảnh cáo đối với doanh nghiệp kiểm toán không thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao tài liệu cho Bộ Tài chính về việc thành lập hoặc chấm dứt hoạt động của cơ sở của doanh nghiệp kiểm toán ở nước ngoài.

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán thực hiện thông báo cho Bộ Tài chính chậm trên 15 ngày so với quy định khi có thay đổi về: Danh sách kiểm toán viên hành nghề; Tên, địa điểm đặt trụ sở chính của doanh nghiệp; Tên, địa điểm đặt trụ sở chi nhánh kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Tạm ngừng kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Chấm dứt hoạt động của chi nhánh kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Báo cáo tình hình hoạt động hàng năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Tài chính.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán không thực hiện thông báo cho Bộ Tài chính khi có thay đổi về: Danh sách kiểm toán viên hành nghề; Tên, địa điểm đặt trụ sở chính của doanh nghiệp; Tên, địa điểm đặt trụ sở chi nhánh kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Tạm ngừng kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Chấm dứt hoạt động của chi nhánh kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Báo cáo tình hình hoạt động hàng năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Tài chính.

Trong trường hợp doanh nghiệp có thay đổi về Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, người đại diện theo pháp luật, tỷ lệ vốn góp của các thành viên; hoặc thực hiện việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi, giải thể không thực hiện thông báo cho Bộ Tài chính có thể bị phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000.

Chánh thanh tra Bộ Tài chính có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền đến mức cao nhất quy định tại Nghị định này.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải phòng
Thanh tra viên thanh tra Bộ Tài chính có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền tối đa đến 500.000 đồng đối với cá nhân vi phạm hành chính, 1.000.000 đồng đối với tổ chức vi phạm hành chính.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền mức cao nhất quy định tại Nghị định này; Áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại cầu giấy Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 25.000.000 đồng đối với cá nhân vi phạm hành chính, 50.000.000 đồng đối với tổ chức vi phạm hành chính; Áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có quyền xử phạt trong lĩnh vực kế toán: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân vi phạm hành chính, 10.000.000 đồng đối với tổ chức vi phạm hành chính.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại thủ đức Theo tapchitaichinh

[Read More...]




Minh bạch để thu hút FDI
Ngày tạo: 02/03/2013 9:17:11 SA - Số lần đọc: 48

Kết quả thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) 2 tháng đầu năm đang ở mức thấp hơn nhiều so với kỳ vọng, cũng như cùng kỳ năm 2012.

Thực trạng...

Cụ thể, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/2/2013, cả nước có 99 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 532 triệu USD, bằng 46,1% so với cùng kỳ năm 2012 và 31 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 98,3 triệu USD, bằng 19,7% so với cùng kỳ năm 2012.

Tính chung, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 630,3 triệu USD, bằng 38,1% so với cùng kỳ năm 2012.

Việc thiếu vắng các dự án lớn đã khiến cho tổng lượng vốn đăng ký giảm mạnh, nhưng cũng là tín hiệu báo trước một năm khó khăn về thu hút đầu tư nước ngoài.

Và nguyên nhân

Bối cảnh thế giới khó khăn cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng trên. Về những chuyển dịch đáng chú ý trong dòng chảy FDI ở khu vực Đông Á hiện nay và ảnh hưởng của những chuyển dịch đó đến Việt Nam, số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy lượng FDI toàn cầu giảm 18% trong năm ngoái, nhưng FDI vào các nước châu Á giảm nhẹ hơn, khoảng 9,5%. Trung Quốc hiện nay là nước thu hút lượng FDI lớn thứ hai toàn cầu, nhưng do chi phí sản xuất tại Trung Quốc đang gia tăng và những căng thẳng trong quan hệ Nhật - Trung nên các nhà đầu tư, nhất là từ Nhật Bản, đang có xu hướng rút bớt vốn đầu tư ra khỏi Trung Quốc và chuyển hướng sang các nước ASEAN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại hải phòng Hiện nay, dòng vốn FDI toàn cầu đổ vào ASEAN lên gần bằng Trung Quốc, với 8% cho ASEAN và 9% cho Trung Quốc. Việt Nam đang có cơ hội để đón nhận sự chuyển hướng này, nhưng để tận dụng cơ hội này dài lâu thì Việt Nam cần có nhiều cải thiện thiết thực để cạnh tranh với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Thái Lan và Indonexia. Năm vừa rồi, Việt Nam đã thu hút hơn 5 tỷ USD FDI từ Nhật Bản.

Một nguyên nhân căn bản cần phải nhắc đến dẫn đến sự giảm sút lượng vốn FDI xuất phát từ chính những yếu kém nội tại của Việt Nam như kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, bên cạnh những vấn đề như lãi suất cao, nợ xấu, môi trường đầu tư mất dần sức hấp dẫn. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng thế giới về môi trường kinh doanh trong năm nay, tụt hơn 20 bậc so với năm 2011. Khi mà môi trường đầu tư kinh doanh thiếu những diễn biến tích cực thì sẽ gây khó khăn trong thu hút FDI, đặc biệt là những nguồn FDI có chất lượng.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Để thu hút thêm các nhà đầu tư đến từ Mỹ và châu Âu, nâng cao lợi ích chiến lược của FDI, ngoài việc cải thiện các yếu tố liên quan đến môi trường đầu tư thì Việt Nam cần giảm bớt tham nhũng. Các nước như Anh, Mỹ có những đạo luật chống tham nhũng ở nước ngoài rất khắt khe cho nên các doanh nghiệp từ các nước này thường tránh đầu tư vào những nước có tham nhũng cao.

Theo chỉ số đưa hối lộ của Tổ chức minh bạch quốc tế, các công ty đến từ Mỹ, Nhật Bản và Anh nằm trong nhóm 10 quốc gia có các công ty ít đưa hối lộ nhất khi làm ăn, ở nước ngoài, ngược lại với các công ty Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần cải thiện chỉ số liên quan đến tự do kinh tế và tự do chính trị. Nói chung, Việt Nam đang cần những thay đổi thể chế sâu rộng để có thể có những bước tiến mới.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Theo tapchitaichinh

[Read More...]


Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản tăng 8,5%



Theo Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản tháng 2 đạt 1,12 tỷ USD, giảm 41,5% so với tháng trước và giảm 31,4% so với cùng kỳ năm 2012.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại đà nẵng Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của nhóm này 2 tháng đầu năm 2013 đạt 3,04 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ. Nhìn chung, giá trị xuất khẩu của hầu hết mặt hàng đều tăng so với cùng kỳ, trong đó hạt tiêu tăng 77,7%, gạo tăng 20,3%, sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 46,9%, rau quả tăng 16%...

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông
Nguyên nhân là lượng xuất khẩu tăng mạnh đã bù đắp cho phần bị thiệt hại do giá bán bị giảm trên thị trường quốc tế.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng
Theo hanoimoi

[Read More...]


Vấn đề giải quyết nợ xấu “tắc” ở đâu?



Nợ xấu đã được ví là “cục máu đông” của nền kinh tế. Các giải pháp phá “cục máu đông” đã được bàn kỹ, bàn nhiều thậm chí trở thành vấn đề nóng cả trên nghị trường và đã có một quyết tâm chính trị cao để giải quyết. Tuy nhiên, cục bộ dường như chưa có sự đổi thay nhiều. Vậy vấn đề này “tắc” ở đâu?

Chậm nhịp

Không chỉ tại hai phiên chất vấn trên diễn đàn Quốc hội của năm 2012 mà trong cả những kỳ họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chủ đề “nóng”-nợ xấu đã được bóc tách kỹ càng, đồng thời yêu cầu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình giải trình những biện pháp giải quyết vấn đề.

Hàng loạt giải pháp đã được NHNN đưa ra. Chính phủ đã ban hành hệ thống giải pháp trong Nghị quyết 01 và 02 năm 2013 cũng như những nghị quyết trước đó của năm 2012 nhằm thúc đẩy thị trường hoạt động sản xuất, hỗ trợ giải quyết vấn đề nợ xấu. Tính đến nay, xét về định lượng mới chỉ có công bố của Thống đốc về lãi suất là đã được chứng minh trên thực tế mặc dầu xét về nội hàm chưa chắc toàn bộ DN và người dân đã được thực hưởng hiệu quả của việc công bố lãi suất thấp như hiện tại. Còn vấn đề nợ xấu dường như không đi tụt lùi nhưng vẫn giẫm chân tại chỗ.

Giải pháp tổng thể cho vấn đề này, Đề án công ty mua bán nợ quốc gia (VAMC) đáng lẽ đã được NHNN trình Chính phủ cho ý kiến và quyết định trong tháng 1-2013, nhưng đề án lại được gia hạn khi ngày 22-2 Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 79/TB-VPCP truyền đạt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với các bộ, ngành, địa phương về việc tập trung triển khai công tác sau tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013, trong đó, tập trung vào xử lý nợ xấu. Thủ tướng yêu cầu NHNN khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng ngay trong quý I-2013.

Tự làm khó mình

Như vậy ở giải pháp tổng thể đã chậm một nhịp, còn ở cụ thể mỗi ngân hàng trong thực hiện cũng bộc lộ những bất cập. Theo chỉ đạo của Thống đốc, mỗi ngân hàng ngay từ nửa cuối năm 2012 đã phải quyết liệt thực hiện dự phòng rủi ro. Từ việc thực hiện kiên quyết chỉ đạo này của Thống đốc đã bộc lộ một bức tranh mới của hệ thống ngân hàng.

Thời điểm tháng 12-2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, nếu áp dụng các biện pháp xử lý trực tiếp, ngay trong năm 2013, có thể giải quyết được một nửa số nợ xấu hiện tồn tại trong hệ thống ngân hàng. Cụ thể, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng tự giải quyết nợ xấu như trích lập dự phòng rủi ro. Con số trích lập của các ngân hàng trong năm 2012 được Thống đốc ước tính khoảng 90.000 tỉ đồng để giải quyết nợ xấu, trong tổng số nợ xấu của toàn hệ thống là 202.000 tỷ đồng. (Đề án tổng thể giải quyết nợ xấu nếu được thông qua có thể giải quyết khoảng trên 100.000 tỉ đồng nợ xấu nữa - PV).

Tuy nhiên trong những ngày của quý I-2013 khi mùa báo cáo tài chính quý IV-2012 đến, những con số về doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cho thấy một tông màu tương phản với những kết quả rực màu hồng đối với những năm trước của các ngân hàng. Quý IV-2012, lợi nhuận sau thuế của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) lỗ 855 tỉ đồng, giảm 1.295 tỉ đồng (âm 294,6%) so với quý IV-2011. Con số này được Sacombank phân tích là do lợi nhuận của hoạt động kinh doanh chứng khoán quý IV-2012 lỗ 126,5 tỉ đồng (nhiều hơn so với quý IV-2011), do trích dự phòng chứng khoán quý IV-2012 là 360 tỉ đồng, tăng 177 tỉ đồng so với quý IV-2011 dự phòng rủi ro tín dụng quý IV-2012 tăng so với cùng kỳ và dự phòng các khoản phải thu quý IV-2012 cũng tăng mạnh so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế của Ngân hàng này năm 2012 đạt 714,4 tỷ đồng, giảm 64% so với năm 2011 do phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, dự phòng chứng khoán và dự phòng phải thu khó đòi theo chỉ thị 06 của NHNN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ngân hàng TMCP Á châu (ACB) cũng không là ngoại lệ khi công bố lỗ sau thuế là 158,6 tỷ đồng trong quý IV-2012 và chỉ đạt lợi nhuận 928,4 tỷ đồng trong cả năm 2012, so với lần lượt mức lãi 1.349 tỷ đồng và 3.207,8 tỷ đồng cùng kỳ năm 2011. Nguyên nhân chủ yếu kéo lợi nhuận của ngân hàng này tụt mạnh, ngoài hoạt động kinh doanh vàng và ngoại hối, tình trạng nợ xấu cũng tăng mạnh đã dẫn đến khoản trích lập dự phòng rủi ro của ACB tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nợ xấu của ACB ở thời điểm cuối năm 2012 là 2,5% tổng dư nợ, tăng gấp hơn 2 lần so cuối năm 2011. Trong số này, nợ dưới tiêu chuẩn tăng 1,7 lần, nợ nghi ngờ tăng gần gấp đôi và nợ có khả năng mất vốn tăng gấp 2,8 lần (khoảng hơn 1.150 tỷ đồng). Riêng quý IV-2012, trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu của ACB đã tăng 100% so với cùng kỳ.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Không chỉ những ngân hàng cỡ trung gặp khó khăn mà ngay cả các “ông lớn” trong ngành như: Vietcombank, VietinBank, Eximbank… cũng chịu cảnh tương tự khi phải khoản trích lập dự phòng rủi ro, khi nợ xấu tăng cao.

Có thể thấy, ngoài những tác động chung của nền kinh tế khiến cho một món nợ bình thường trở thành nợ khó đòi rồi biến chuyển thành nợ xấu, một tác nhân khiến cho tình hình nợ xấu của nền kinh tế khó biến chuyển là do các ngân hàng thương mại đã tự “ủ” nợ xấu của mình. Điều này được chứng tỏ ngay khi NHNN yêu cầu trích lập dự phòng theo đúng tiêu chuẩn quy định, con số về doanh thu và lỗ lãi bộc lộ rõ. Nếu chính các ngân hàng nhận thức được vấn đề, cùng nhau đồng tâm hiệp lực cắn răng chịu đau từ vài năm trước thì có lẽ bệnh tình đã không trầm trọng như hiện nay. Mặc dù vậy, với đề án tổng thể về nợ xấu sắp được công bố và nguyên nhân của căn bệnh đã tìm được, hy vọng một sự biến chuyển mới sẽ thực sự bắt đầu.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hải phòng Theo baohaiquan

[Read More...]


Ngân hàng nhà nước dự kiến dành 30.000 tỷ đồng hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã hội với lãi suất 6%



Ngân hàng nhà nước dự kiến dành 30.000 tỷ đồng hỗ trợ 5 ngân hàng để cho các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang... vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở với lãi suất ổn định 6% trong 3 năm và thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 10 năm.

Thông tin trên được nêu trong dự thảo thông tư quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ vừa được Ngân hàng nhà nước công bố lấy ý kiến nhân dân.

Dự thảo quy định rõ 3 nhóm đối tượng khách hàng được vay vốn từ chính sách hỗ trợ trên gồm: 1. Đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, thuê mua nhà ở xã hội; 2. Đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, mua nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2; 3. Các doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội; các doanh nghiệp là chủ đầu tư các dự án nhà ở thương mại được chuyển đổi công năng sang dự án nhà ở xã hội, theo thông báo của Bộ Xây dựng.

Ngân hàng nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) phải dành một lượng vốn tối thiểu 3% tổng dư nợ cho vay tại thời điểm cuối năm trước để cho vay các đối tượng cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, đối tượng có thu nhập thấp, các doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội; các doanh nghiệp là chủ đầu tư các dự án nhà ở thương mại được chuyển đổi công năng sang dự án nhà ở xã hội với lãi suất và thời hạn phù hợp.

Ngân hàng Nhà nước sẽ dành tối đa 30.000 tỷ đồng hỗ trợ 5 ngân hàng thương mại nhà nước để cho vay các đối tượng nêu trên, thông qua hình thức tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng cho mục tiêu cho vay hỗ trợ nhà ở thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với khách hàng là 1,5%/năm tại cùng thời điểm. Các ngân hàng có trách nhiệm trả lãi tái cấp vốn hàng tháng cho Ngân hàng Nhà nước.

Lãi suất ổn định 6% trong 3 năm

Về lãi suất cho vay, dự kiến áp dụng lãi suất ổn định 6%/năm đến thời điểm 15/4/2016 (trong 3 năm). Sau thời điểm này khách hàng tiếp tục được hưởng chính sách lãi suất hỗ trợ theo công bố của Ngân hàng Nhà nước.

Trong đó, thời hạn cho vay đối với đối tượng mua, thuê, thuê mua nhà tối thiểu 10 năm và tối đa là 5 năm đối với doanh nghiệp.

Còn về số tiền được vay, các khách hàng vay mua, thuê, thuê mua nhà thì số tiền vay tối thiểu là 80% phương án vay và 70% đối với doanh nghiệp (khách hàng có vốn tham gia vào phương án vay theo quy định của ngân hàng nhưng không quá 20% đối với người mua, thuê, thuê mua nhà và 30% đối với doanh nghiệp).

Thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 10 năm

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ngân hàng Nhà nước cũng dự kiến thời hạn được hỗ trợ lãi suất tối đa là 10 năm (dự kiến đến ngày 15/4/2023 các ngân hàng hoàn trả hết khoản vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước và dư nợ còn lại của khách hàng tại các ngân hàng từ thời điểm này được chuyển sang hình thức cho vay bằng nguồn vốn của ngân hàng).

Cũng trong dự thảo này, Ngân hàng Nhà nước còn quy định cụ thể về điều kiện cho vay.Theo đó, khách hàng mua, thuê, thuê mua nhà ở phải có hợp đồng với chủ đầu tư theo quy định; cam kết vay vốn để mua, thuê, thuê mua một căn nhà duy nhất để ở và chưa được vay vốn hỗ trợ lãi suất để mua, thuê, thuê mua nhà ở tại các ngân hàng khác.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại long biên Còn đối với khách hàng là các doanh nghiệp, dự thảo yêu cầu phải có tên trong danh mục chủ đầu tư các dự án nhà ở xã hội, dự án chuyển đổi công năng từ dự án nhà ở thương mại sang dự án nhà ở xã hội do Bộ Xây dựng thông báo cho Ngân hàng Nhà nước.

Dự kiến Thông tư này nếu được thông qua sẽ có hiệu lực kể từ ngày 15/4 tới.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại long biên Theo tapchitaichinh

[Read More...]


Dân ngại thanh toán bằng thẻ bởi có nhiều bất cập



Phải trải qua nhiều công đoạn và mất thời gian, chưa kể nhiều nơi còn bắt khách hàng đóng phí 2-3% phí hoặc hạn chế những ưu đãi… khiến không ít người ngại dùng thẻ để thanh toán mà vẫn dùng tiền mặt.

Chị Thanh Tâm, quận Bình Tân, TP HCM tuần rồi mua chiếc điện thoại 11 triệu đồng tại một hệ thống di động lớn trên đường Lê Hồng Phong, quận 5. Khi đến quầy cà thẻ, cô nhân viên tính trên hóa đơn 11,22 triệu đồng. Chị thắc mắc tại sao lại lên 220.000 đồng so với giá niêm yết thì được giải thích phải thu thêm phụ phí 2% để trả cho ngân hàng.

Thấy chị Tâm có vẻ không đồng ý, cô này liền phân trần: “Lẽ ra bên em phải trả phí trên, nhưng do doanh số bán hàng qua thanh toán thẻ của cửa hàng rất thấp và không đủ bù chi phí để đóng cho ngân hàng, nên mới nhờ khách hàng hỗ trợ thêm”.

Tại nhiều siêu thị lớn ở Hà Nội và TP HCM, dù không tính phí nhưng một số nơi lại thêm quy định vô lý khác. Ví dụ như nếu cà thẻ thay vì trả tiền mặt nghiễm nhiên không được hưởng các chương trình khuyến mại và những hình thức chiết khấu thanh toán khác của siêu thị. Chưa kể, nhiều khách hàng cảm thấy phiền hà do khâu thanh toán bằng thẻ hiện nay rắc rối và làm mất thời gian hơn trả tiền mặt.

Chị Nga, một khách hay mua hàng tại BigC TP HCM, vẫn nhớ cảm giác ngại ngùng khi chờ in hóa đơn thanh toán bằng thẻ và ký tên. “Hôm ấy, máy quẹt thẻ bị lỗi nên in hóa đơn bị chậm khiến nhiều người khác phải đợi phía sau, làm tôi có cảm giác như mình có lỗi”, chị chia sẻ.

Những bất cập trên tuy không quá lớn nhưng cũng làm nhiều người nản lòng và quyết định chọn phương thức thanh toán bằng tiền mặt. “Ở cửa siêu thị nào cũng có sẵn ATM, tôi thường rút tiền mặt rồi vào thanh toán, vừa nhanh lại không bị thiệt”, chị Lan, một khách hàng mua sắm tại siêu thị FiviMart Võ Thị Sáu (Hà Nội), cho biết.

Đó là chưa kể nhiều người vì chủ quan không mang theo tiền mặt nhưng nhiều trung tâm thương mại lớn, cửa hàng thời trang, điện thoại lớn nhưng lại không có dịch vụ thanh toán bằng thẻ. Phương (Bà Triệu, Hà Nội), đã phải chạy tất tưởi ra ngoài đi tìm máy ATM vì một cửa hàng bán đồ Nhật tại trung tâm thương mại lớn trên phố Tây Sơn chưa lắp đặt POS. “Cứ nghĩ trung tâm thương mại lớn thì mọi quầy hàng đều cho phép dùng thẻ. Ai dè đang ăn thấy khách bàn bên cạnh đứng dậy đưa tiền mới biết ở đây không có POS”, Phương nói.

Đại diện một siêu thị lớn ở TP HCM thừa nhận dù đã kết nối với các ngân hàng, khách có thể thanh toán qua thẻ nhưng rất ít người mặn mà (doanh số chỉ chiếm vài %). Vị này cho rằng, một phần là do thói quen dùng tiền mặt trong mua sắm, chi tiêu đang rất phổ biến. Ngoài ra, còn do tâm lý nhiều người ngại phiền hà, rắc rối hoặc mất thời gian vì phải chờ ký vào hóa đơn thanh toán khi cà thẻ.

Trao đổi với VnExpress.net, lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) khẳng định để thu hút khách hàng thanh toán qua thẻ, tất cả nhà băng đều không thu phí người dùng. Thậm chí, ngân hàng còn liên kết với các đơn vị chấp nhận thẻ để có những chính sách ưu đãi, giảm giá khi mua hàng bằng thẻ, hoặc được chiết khấu 3-5% trên hóa đơn…

Tuy nhiên, ông cho biết ở một số đơn vị chấp nhận thẻ do doanh số thanh toán không cao nên đã thu phí khách hàng. “Điều này là hoàn toàn sai, nhưng ông cho biết rất khó xử lý. Vì họ lách bằng cách thỏa thuận với khách và sau đó ghi thẳng giá tiền vào hóa đơn (đã bao gồm tiền sản phẩm và phí), chứ không ghi riêng lẻ các khoản ra nên ngân hàng không có căn cứ để phạt”, ông nói.

Một Phó tổng giám đốc Techcombank cũng nói thẳng, hiện một số đơn vị kinh doanh không muốn chấp nhận thẻ một phần do phải trả phí ngân hàng, một phần là phải công khai doanh thu. Vì thế, một số nơi dù đã ký hợp đồng chấp nhận thẻ với ngân hàng nhưng vẫn tìm nhiều cách hạn chế các giao dịch bằng thẻ của khách như để máy cà thẻ vào nơi khuất, ưu tiên khách hàng trả tiền mặt…

Lãnh đạo của Hội Thẻ Việt Nam cho biết thêm, về nguyên tắc, điểm chấp nhận thanh toán thẻ cam kết với ngân hàng không tính phí người dùng. “Tuy nhiên, việc họ vi phạm khi thu phí của khách lại chưa có chế tài nào hợp lý để giải quyết”, vị này cho biết.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại nguyễn chính thanh đống đa Bởi theo ông, phía ngân hàng khi phát hiện sai phạm từ các điểm chấp nhận thanh toán, chỉ có cách duy nhất là thu hồi máy POS. Thế nhưng, nếu làm vậy thì lại ảnh hưởng đến chính sách phát triển thanh toán không dùng tiền mặt do các điểm kinh doanh cũng chẳng mặn mà gì. “Đó là chưa kể đến việc cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhà băng này phạt thì sẽ có nhà băng khác lắp đặt máy thay thế ngay”, vị lãnh đạo này phân tích.

Đến đầu năm 2013, toàn hệ thống có khoảng hơn 14.000 thiết bị ATM và gần 105.000 điểm giao dịch chấp nhận thẻ (POS, EFTPOS, EDC). Trong khi đó, theo Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước, hiện cả nước có hơn 54 triệu thẻ, trong đó có 50 triệu thẻ nội địa, nhưng phần lớn các giao dịch phát sinh qua thẻ chỉ là “để rút tiền” thay vì chi cho tiêu dùng.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại cầu giấy Ngoài ra, số lượng các điểm giao dịch chấp nhận thanh toán thẻ dù luôn tăng qua các quý theo thống kê của Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.

Để đẩy nhanh việc thanh toán không dùng tiền mặt, một đại diện Ngân hàng Nhà nước đề xuất các bộ ngành khác cũng cần vào cuộc thay vì để một mình ngân hàng phải nài nỉ từng nơi mua sắm lắp đặt POS và phát triển mạng lưới. Ví dụ như có thể đề xuất Bộ Công Thương quy định cứng tất cả trung tâm mua sắm, nhà hàng đều lắp đặt POS, Bộ Tài chính có chính sách giảm thuế hoặc tương tự để khuyến khích các điểm giao dịch thực hiện thanh toán qua thẻ…
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại bắc ninh Theo webketoan

[Read More...]


Tín dụng ngoại tệ giảm



Ngân hàng Nhà nước vừa công bố thông tin về tình hình hoạt động ngân hàng sau hai tháng đầu năm 2013.

Báo cáo cho biết, đến cuối tháng 2/3013, tăng trưởng tín dụng vẫn giảm so với cuối năm 2012, song tín dụng bằng VND vẫn tăng khả quan.

Cụ thể, tính đến ngày 28/2/2013, tín dụng giảm 0,28%, thấp hơn mức giảm 1,88% trong 2 tháng đầu năm 2012. Tính theo tháng, tín dụng đã đảo chiều tăng 0,26% trong tháng 2 từ mức giảm 1,23% trong tháng 1, cải thiện so với mức giảm trong cả tháng 1 và 2/2012.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Theo Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), điểm tích cực là tín dụng bằng VND so với cuối năm 2012 đã đảo chiều tăng 0,71% từ mức giảm 0,12% trong tháng 1/2013.

“Mức giảm của tín dụng đối với nền kinh tế hoàn toàn là do tín dụng bằng ngoại tệ giảm, điều này cũng phù hợp với chủ trương hạn chế tình trạng đô la hóa của Chính phủ”, báo cáo nhìn nhận.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại thanh xuân Tín dụng bằng ngoại tệ giảm là sự nối tiếp xu hướng đã thể hiện trong năm 2012. Sau khi lãi suất vay VND đã giảm mạnh, khối doanh nghiệp xuất khẩu đã tiếp cận được các mức từ 10 - 13%/năm, chênh lệch so với lãi vay bằng USD đã thu hẹp đáng kể. Trong khi vay ngoại tệ vẫn tiềm ẩn rủi ro tăng tỷ giá USD/VND. Theo đó, nhu cầu vay ngoại tệ đã giảm.

Diễn biến trên là đáng chú ý, khi cuối năm 2012, Ngân hàng Nhà nước có văn bản tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu được vay ngoại tệ dùng để đầu tư, sản xuất kinh doanh trong nước, thay vì dự tính sẽ siết lại trước đó.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hai bà trưng Theo vneconomy

[Read More...]


Đi tìm nguyên nhân của suy giảm tín dụng



Sự suy giảm tín dụng từ năm 2012 cho dù đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định là “không nằm ngoài dự đoán trong bối cảnh suy thoái kinh tế và sự ra đi của hàng chục nghìn doanh nghiệp...”. Tuy nhiên, với diễn biến tiếp tục suy giảm của tín dụng trong những tháng đầu năm 2013 đã khiến không ít chuyên gia, doanh nghiệp băn khoăn về khó khăn sẽ còn tiếp diễn...

Tiếp tục suy giảm

Báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, đến cuối tháng 2/3013, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ vẫn giảm so với cuối năm 2012, song tín dụng bằng VND vẫn tăng khả quan. Cụ thể, tính đến ngày 28/2/2013, tín dụng giảm 0,28%, thấp hơn mức giảm 1,88% trong 2 tháng đầu năm 2012. Tính theo tháng, tín dụng đã đảo chiều tăng 0,26% trong tháng 2 từ mức giảm 1,23% trong tháng 1, cải thiện so với mức giảm trong cả tháng 1 và 2/2012. Cùng đó, số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động tiếp tục tăng 6,9% so với cuối năm 2012, đã cho thấy bức tranh đình đốn của nền kinh tế mà suy giảm tín dụng là nút thắt trong đó.

Theo Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), điểm tích cực là tín dụng bằng VND so với cuối năm 2012 đã đảo chiều tăng 0,71% từ mức giảm 0,12% trong tháng 1/2013. “Mức giảm của tín dụng đối với nền kinh tế hoàn toàn là do tín dụng bằng ngoại tệ giảm, điều này cũng phù hợp với chủ trương hạn chế tình trạng đô la hóa của Chính phủ”, báo cáo nhìn nhận.

Tín dụng bằng ngoại tệ giảm là sự nối tiếp xu hướng đã thể hiện trong năm 2012. Sau khi lãi suất vay VND đã giảm mạnh, khối doanh nghiệp xuất khẩu đã tiếp cận được các mức từ 10 - 13%/năm, chênh lệch so với lãi vay bằng USD đã thu hẹp đáng kể. Trong khi vay ngoại tệ vẫn tiềm ẩn rủi ro tăng tỷ giá USD/VND. Theo đó, nhu cầu vay ngoại tệ đã giảm.

Thực tế trong gần 3 tháng đầu năm 2013, tình hình hoạt động của thị trường ngân hàng hết sức ảm đạm. Dư âm của đợt hạ lãi suất điều hành cuối cùng của NHNN trong 2012 và những ngày cuối tháng 3/1013 chỉ tác động nhỏ đến mặt bằng chung và cũng không hề tạo những đột biến trên thị trường tín dụng. Trên thị trường 1, mặt bằng lãi suất huy động VND ổn định hầu hết ở các kỳ hạn, kỳ hạn 12 tháng về dưới 10%/năm và lãi suất cho vay ổn định quanh 11% - 16%/năm.

Nếu so sánh với cùng kỳ các năm 2010, 2011, 2012 thì tốc độ tăng trưởng tín dụng của tháng 1/2013 đang thực sự báo động. Xu hướng này sẽ còn kéo dài đến hết quý II/2013 và như vậy, sự hồi phục sức sản xuất, chi tiêu và xét ở quy mô rộng hơn là tổng cầu, vẫn chưa tìm thấy sự lạc quan.

Xét trên thị trường 2, không khí ảm đạm bao trùm là nét chủ đạo và chi phối hầu hết các mặt từ quy mô giao dịch đến lãi suất. Nguồn cung tiền đồng quá dồi dào nên lãi suất rất thấp, thậm chí chỉ ở mức 1%/năm đối với kỳ hạn qua đêm, được coi là mức thấp kỷ lục. Trong khi đó, đầu tư trái phiếu chính phủ tiếp tục là kênh hấp dẫn đối với ngân hàng.

Đến thời điểm nay, đang vào mùa báo cáo tài chính, các tín hiệu chính thức phát đi về kết quả hoạt động từ các ngân hàng cho thấy, rất nhiều ngân hàng không đạt được các chỉ tiêu lợi nhuận, kinh doanh đề ra, tăng trưởng tín dụng không như kế hoạch.

Là thành viên chịu nhiều sóng gió vì các lãnh đạo chủ chốt "gặp hạn”, năm 2012 Ngân hàng ACB có mức lỗ sau thuế là 158,6 tỷ đồng ở quý IV/2012 và chỉ đạt lợi nhuận 928,4 tỷ đồng trong cả năm 2012. Trong cả năm 2012, hầu hết các khoản doanh thu của ngân hàng đều giảm, trong đó hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng lỗ 1.863 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Thanh Toại - Phó Tổng giám đốc ACB cho biết, khủng hoảng chung của nền kinh tế khiến khách hàng gặp khó khăn nên nguồn thu từ các khoản vay của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Việc trích lập dự phòng tăng do tình trạng nợ xấu còn cao cũng là nguyên nhân khiến lợi nhuận giảm. Thêm vào đó, sự cố nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng xảy ra hồi tháng 8-2012 đã khiến ngân hàng không thể đạt mục tiêu lợi nhuận đề ra. Năm 2013, dự báo kế hoạch lợi nhuận sẽ khiêm tốn hơn.

Theo báo cáo tài chính hợp nhất của Ngân hàng SHB, tính cả năm 2012 SHB lỗ trước thuế 94,88 tỷ đồng và lỗ sau thuế là 95,46 tỷ đồng. Một trong những nguyên nhân khiến lợi nhuận của SHB đảo chiều là do ngân hàng này phải gánh thêm nhiều chi phí hoạt động, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng.

Đi tìm nguyên nhân

Theo đánh giá của giới chuyên gia, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do nhu cầu sử dụng vốn phục vụ sản xuất kinh doanh chưa được cải thiện bởi lượng tồn kho của doanh nghiệp rất lớn. Tính đến tháng 1/2013, chỉ số tồn kho tăng 21,5% so với cùng kỳ 2012, xuất hiện một số ngành có tồn kho tăng gấp 3 lần. Vì thế, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung bán tháo hàng tồn. Đi kèm với hàng tồn kho cao là nhu cầu tiêu dùng giảm rất mạnh, người dân tăng cường thắt chặt chi tiêu. Cùng với đó, tình trạng nợ xấu chưa được cải thiện; chính sách giải cứu hàng tồn kho chưa được triển khai mạnh nên chưa tác động đến thị trường và doanh nghiệp…

“Bức tranh chung của thị trường tiền tệ, đặc biệt là nút thắt tín dụng vẫn chưa thoát khỏi u ám vốn kéo dài từ năm 2012 đến nay, không chỉ là sự lo ngại thông thường mà dần hiện hữu tác động cho cả nền kinh tế”, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị LienVietPostBank.

Theo ông Hưởng, nếu tổng cầu, sức sản xuất, tiêu thụ hàng hóa tê liệt nốt năm nay nữa thì hậu quả sẽ vô cùng tai hại. Bóng ma lạm phát là vẫn có nhưng không vì thế mà quá sợ hãi để rồi đẩy nền kinh tế đến chỗ giảm phát. Rất nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, châu Âu đều đã tung ra nhiều gói kích thích kinh tế. Điều đó cho thấy, họ sợ giảm phát hơn là lạm phát..

Lãnh đạo một ngân hàng thương mại nhà nước cho rằng, để giải quyết vấn đề này thì phải đi từ tháo gỡ nút thắt tín dụng mà trước hết là xử lý nợ xấu. Giải pháp tiếp theo là phải tìm cách khôi phục tổng cầu, thậm chí là đặt lên bàn cân giữa lạm phát và giảm phát. Không nhất thiết quá sợ hãi lạm phát mà kéo dài sự trì trệ của nền kinh tế.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh
Theo TS. Lê Thẩm Dương, Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh: Trong kết cấu lãi của các ngân hàng thì 50-70% là từ hoạt động cho vay, mà trong cho vay thì không dưới 1/3 là hiệu quả từ hoạt động vĩ mô, đó là chính sách kích cầu. Nhưng hãy thử phân tích, niềm tin thị trường hiện đang rất yếu. Sau khi chỉ số giá tiêu dùng là 1,35% trong tháng 1 và 1,32% trong tháng 2 chứng tỏ thực tế: sức mua thấp, người tiêu dùng không mạnh dạn chi tiêu, hệ lụy từ việc doanh nghiệp phá sản nhiều, thu nhập thực tế của người tiêu dùng giảm. Hiệu quả các gói hỗ trợ thuế, lãi suất không như mong muốn.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Tăng trưởng tín dụng đóng góp khoảng 70 - 75% lợi nhuận cho các ngân hàng, nên khi hoạt động này bị sụt giảm, đình trệ thì tình hình tài chính của ngân hàng không thể khơi thông. Hiện nay, ngân hàng trải thảm mời, các doanh nghiệp vẫn không mặn mà vay vốn. Trong năm 2013, mục tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN đặt ra là 12%, trong đó bao gồm cả khoản tiền ngân hàng đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Song theo các chuyên gia, tính khả thi của mức tăng trưởng này là đáng lo ngại.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại long biên Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Ngân hàng phá sản, đáng lo ngại?



Thông tin về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp nhận cho ngân hàng yếu kém, tái cơ cấu, sáp nhập hoặc thậm chí phá sản khiến người gửi tiền tiết kiệm lo lắng khi ngân hàng mình gửi tiền lâm vào hoàn cảnh trên.

Theo qui trình, một ngân hàng nộp thủ tục xin phá sản, phần tiền thu được từ việc thanh lý tài sản sẽ được trả cho các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên: cơ quan thuế, người gửi tiền, các tổ chức tín dụng (TCTD) trên thị trường liên ngân hàng, người sở hữu trái phiếu của ngân hàng, các nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ và cuối cùng là cổ đông của ngân hàng.

Bảo đảm tiền gửi của khách hàng

Luật sư Phạm Chí Công, công ty Luật Khai Phong, cho biết người gửi tiền ở tất cả các ngân hàng, hoặc TCTD, đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Có nghĩa là khi một ngân hàng nào đó nộp đơn xin phá sản thì khách hàng gửi tiền tại TCTD đó đều được bảo hiểm tiền gửi chi trả.

Ví dụ khách hàng gửi tiết kiệm 100 triệu đồng tại ngân hàng, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến không có khả năng chi trả, chấm dứt hoạt động, bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tiền 50 triệu đồng, số còn lại cùng với lãi ở ngân hàng sẽ được giải quyết theo Luật Phá sản.

Đối với trường hợp ngân hàng giải thể, không tiếp tục hoạt động, ngân hàng sẽ phải thực hiện mọi nghĩa vụ cho khách hàng trước khi giải thể. Còn trong trường hợp ngân hàng được một ngân hàng khác mua lại hay sáp nhập thì ngân hàng trong tương lai sẽ tiếp quản, giải quyết các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cũ. Theo luật sư Công, trong mọi trường hợp, khách hàng gửi tiền không lo bị mất tiền. Phía NHNN Việt Nam cũng từng khẳng định, trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mục tiêu hàng đầu là phải bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Mặc dù vậy, thì người gửi tiền vẫn lo lắng khi mức bảo hiểm tiền gửi như trên là quá thấp. Một sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng, nhưng chỉ bảo hiểm 50 triệu đồng thì rõ ràng là quá lạc hậu, không phù hợp với tốc độ tăng trưởng của ngân hàng. Nếu sự thật ngân hàng phá sản thì sẽ ảnh hưởng nặng đến niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng.

Tẩu tán tài sản

Trong khi đó, nếu ngân hàng yếu kém có thể bị phá sản, họ sẽ cố gắng kéo dài thời gian để tìm cách tẩu tán tài sản. Ví dụ, họ có thể thành lập công ty con để thế chấp tài sản, vay tiền và ghi vào nợ xấu, khi ngân hàng phá sản thì nhiều khả năng sẽ được xóa bỏ. Lúc đó, có lẽ chỉ có khách hàng gửi tiền, cổ đông sẽ chịu thiệt, còn những ông chủ ngân hàng sẽ vẫn ung dung hưởng lợi những món tài sản lớn.

Trường hợp Habubank là một điển hình, khi NHNN báo cáo giám sát đặc biệt, vốn chủ sở hữu chỉ còn chưa đầy 200 tỷ đồng, trong khi báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) năm 2011 ghi vốn chủ sở hữu của Habubank là hơn 4.051 tỷ đồng. Nếu Habubank không được cứu mà rơi vào tình trạng phá sản thì chưa biết ai được lợi hơn. Bởi trước khi sáp nhập, vào quý I/2012, Habubank có tổng tài sản hơn 34.600 tỷ đồng. Như vậy, trong trường hợp phá sản, giả định tài sản của Habubank được thanh lý với mức giá chiết khấu 50%, số tiền thu về đã đủ để chi trả cho người gửi tiền, và 50 triệu đồng bảo hiểm tiền gửi/tài khoản, số còn lại là món hời rất lớn.

Các phân tích trên đây đều là giả định, nhưng khi diễn ra sẽ không hề đơn giản vì còn liên quan tới nhiều ngân hàng, nhiều khoản vay nợ khác... Vì vậy, các chuyên gia cho rằng muốn bảo vệ tốt tiền gửi của khách hàng, NHNN phải ra tay giám sát chặt chẽ cổ đông lớn ở những ngân hàng yếu kém, muốn chống đối lại việc sáp nhập, bị mua rẻ để tẩu tán tài sản, thậm chí phải phong tỏa tài sản khi cần thiết.

Phá sản cũng bình thường

Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều bình đẳng, NHTM cũng là một doanh nghiệp, vì vậy việc kinh doanh thua lỗ dẫn đến chấm dứt hoạt động là việc bình thường. Bởi lúc kinh tế khó khăn, hàng nghìn doanh nghiệp thua lỗ phá sản, còn nhiều ngân hàng lại báo cáo lãi hàng nghìn tỷ đồng là rất bất công. Sau đó, các ngân hàng yếu kém lại được Nhà nước đứng ra bảo đảm tính thanh khoản là điều vô lý, dù bảo đảm bằng nguồn tiền nào đi nữa thì cũng là tiền đóng thuế của dân.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Ai cũng biết, lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm, nếu để ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến người gửi tiền, gây bất ổn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, khi ngân hàng phá sản thì người gửi tiền vẫn được xem là một chủ nợ và được phân chia tài sản còn lại của ngân hàng.

Thạc sĩ Nguyễn Việt Khoa, giảng viên Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM, cho biết: Việc phá sản của ngân hàng cũng là chuyện bình thường. Chính sách tiền tệ là vì lợi ích của hàng trăm nghìn doanh nghiệp chứ không phải vì lợi ích của vài chục ngân hàng. "Nếu Nhà nước muốn cứu thì hãy cứu hàng trăm nghìn doanh nghiệp khó khăn hiện nay, bởi vì khi họ phá sản, hàng loạt người sẽ phải thất nghiệp, cuộc sống sẽ khó khăn hơn", thạc sĩ Khoa nhấn mạnh.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Trước đây, một lãnh đạo cao cấp cũng từng khẳng định, "Nếu không cho ngân hàng phá sản thì sẽ không có kinh tế thị trường". Cho nên, ngân hàng nào làm tốt thì tồn tại, nếu không tốt, không sáp nhập, thì mạnh dạn cho phá sản. Người dân cũng phải lựa chọn ngân hàng tốt, tạo được lòng tin, để gửi tài sản của mình vào đó.

Một số chuyên gia khác cũng khẳng định, các chủ ngân hàng tạo ra rủi ro rất lớn đối với hệ thống tài chính, nền kinh tế, làm suy giảm tài sản của các cổ đông, làm ảnh hưởng đối với tiền gửi của người dân thì phải bị trừng phạt. Một số ngân hàng yếu kém khi được Nhà nước hỗ trợ thanh khoản lại dùng số tiền đó đi thâu tóm các ngân hàng khác, đó là điều không thể chấp nhận. Vì vậy, cần chuẩn bị tinh thần cho ngân hàng yếu kém bị phá sản.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại thủ đức Theo thoibaokinhdoanh

[Read More...]


Lý do chính tăng giá xăng dầu



“Nếu không cho tăng ở thời điểm giá xăng dầu thế giới đang đỉnh điểm mà đợi khi giá xăng dầu thế giới có biểu hiện đi xuống mới tăng thì truyền thông có thể sẽ suy diễn không đúng do không hiểu hết”.

Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam đã lý giải như vậy tại buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ chiều 29/3, trước nhiều câu hỏi của báo giới về quyết định tăng giá xăng dầu của liên bộ Tài chính – Công Thương cách đây một ngày.

Theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, chúng ta đã nhiều lần bàn về giá xăng dầu và hiện các bộ đang điều hành giá xăng dầu theo Nghị định 84, trong đó quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục… để điều chỉnh tăng hay giảm giá xăng dầu.

Về lý do phải tăng giá xăng dầu, Bộ trưởng Vũ Đức Đam cho rằng, có hai yếu tố chính, đó là giá xăng dầu của Việt Nam hiện thấp hơn các nước có cùng biên giới, và quan trọng hơn là do giá bán hiện thấp hơn giá cơ sở.

“Nếu duy trì giá cũ thì quỹ bình ổn giá sử dụng hết, không còn công cụ nào hỗ trợ, chỉ còn cách lấy ngân sách để bù, nhưng chúng ta đã thống nhất nguyên tắc là không thể bao cấp mãi giá các mặt hàng thiết yếu mà phải dần tiến tới theo thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, người phát ngôn của Chính phủ nói.

Cũng theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, lẽ ra giá xăng dầu phải được tăng từ tháng trước, nhưng do phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên Chính phủ quyết định chưa cho tăng. Đến nay, trước tình hình quỹ bình ổn giá đã sử dụng hết khả năng, mặc dù giá xăng dầu thế giới có đi xuống nhưng giá bán xăng dầu vẫn thấp hơn nên cần điều chỉnh.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Bên cạnh đó, ông Đam thông tin thêm, giá xăng thế giới tăng giảm ngoài lý do biến động chính trị bất thường thì cũng có quy luật của nó. Ngay tại cuộc họp tháng trước, các bộ đã dự liệu từ giữa tháng 3 trở đi, khi thời tiết qua mùa đông, giá xăng dầu sẽ không tăng cao nữa.

Do đó, nếu không cho tăng ở thời điểm giá xăng dầu thế giới đang đỉnh điểm mà đợi khi giá xăng dầu thế giới có biểu hiện đi xuống mới tăng thì truyền thông có thể sẽ suy diễn không đúng do không hiểu hết. Điều quan trọng nhất là phải công khai minh bạch tất cả các yếu tố, quỹ bình ổn có bao nhiêu, từng doanh nghiệp sử dụng bao nhiêu, giá nhập khẩu, giá thế giới là bao nhiêu...

Chính phủ khẳng định “điều hành giá xăng dầu theo đúng quy định, bảo đảm an ninh năng lượng và vì lợi ích chung của nền kinh tế xã hội, của đất nước chứ không vì lợi ích cục bộ của một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu".

Lý giải vì sao lại có sự điều chỉnh khá cao, khiến người dân và doanh nghiệp khá ngỡ ngàng, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai cho biết, quan điểm điều hành của Chính phủ và liên bộ Tài chính - Công Thương là luôn xác định và cân nhắc các lợi ích và hài hòa lợi ích của người dân, Nhà nước và doanh nghiệp.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại cầu giấy “Trong lần điều chỉnh này, sau khi tính toán đủ chi phí của xăng dầu thì kết quả là giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành, cụ thể với mặt hàng xăng là 1.430 đồng/lít, dầu diesel là 362 đồng/lít, dầu hỏa 480 đồng/lít, dầu mazut 807 đồng/kg. Đấy chính là chênh lệch giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành trước thời điểm 20 giờ ngày 28/3. Liên bộ đã quyết định đề xuất phương án là điều chỉnh giá đúng bằng chênh lệch giá cơ sở cao hơn giá bán hiện hành”, Thứ trưởng Mai cho hay.

Trước băn khoăn của báo giới về hoạt động của quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện chưa được công khai minh bạch, đại diện lãnh đạo Bộ Tài chính nói, trong quá trình điều hành giá xăng dầu, liên bộ Tài chính - Công Thương luôn luôn đảm bảo tính công khai, minh bạch.

Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Tài chính cho biết sẽ “ghi nhận” ý kiến này và trong thời gian tới sẽ làm sao công khai minh bạch để các cơ quan báo chí và nhân dân giám sát, đóng góp ý kiến để việc điều hành giá xăng dầu được sát hơn.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại long biên Theo vneconomy

[Read More...]


Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính



Với nỗ lực rút ngắn thời gian giải quyết cho tổng số 47 thủ tục hành chính (TTHC) kể từ thời điểm 1/4/2013, Cục Thuế Thái Nguyên đang tiếp tục thể hiện chủ trương nâng cao chất lượng phục vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và tạo thêm những bước đột phá mới nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế.

Thông điệp này được Cục trưởng Nguyễn Văn Tiến minh chứng bằng Công văn số 464/QĐ-CT mà Cục Thuế Thái Nguyên mới ban hành ngày 26/3/2013 về việc rút ngắn thời gian giải quyết TTHC thuế.

Nội dung công văn này nêu rõ: để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính thuế giai đoạn 2011- 2015, tập trung vào đơn giản hoá TTHC thuế, phù hợp với các chính sách thuế thay đổi có hiệu lực từ 01/7/2013, kể từ ngày 1/4/2013, Cục Thuế Thái Nguyên sẽ rút ngắn thời gian giải quyết công việc đối với 47 TTHC thuế thuộc 4 nhóm, gồm: thủ tục đăng ký thuế; thủ tục hoàn thuế; thủ tục miễn thuế, giảm thuế đối với các doanh nghiệp (DN) thuộc Cục Thuế quản lý và các thủ tục khác.

Cụ thể hơn, đối với 9 thủ tục thuộc nhóm đăng ký thuế, sau khi nghiên cứu tình hình cụ thể, Cục Thuế quyết định rút ngắn thời gian giải quyết từ 3 ngày làm việc theo quy định, xuống còn 2 ngày làm việc.

Đối với 29 thủ tục hoàn thuế Giá trị gia tăng, Thu nhập cá nhân và một số loại thuế, phí, nhận thấy việc rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính sẽ hỗ trợ rất lớn cho DN về vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh trong một năm tiếp tục khó khăn như 2013, Cục Thuế đã tổ chức cuộc họp với các bộ phận liên quan để rà soát, đơn giản tối đa các khâu giải quyết công việc. Nhờ đó, với nhóm này, tất cả các thủ tục mà Bộ Tài chính đang quy định là 15 ngày và 60 ngày làm việc, Cục Thuế đã rút ngắn còn 6 ngày và 20 ngày làm việc (tương ứng giảm 60 - 67% thời gian).

Tương tự đối với 7 TTHC thuộc nhóm các thủ tục miễn thuế, giảm thuế đối với các DN thuộc Cục Thuế quản lý, bằng việc siết lại quy trình quản lý giữa các bộ phận, Thái Nguyên quyết định giảm thời gian giải quyết miễn, giảm thuế từ 30 ngày theo quy định xuống còn 10 ngày làm việc; trường hợp cần kiểm tra thực tế, Cục Thuế cũng chỉ giới hạn trong 20 ngày làm việc, rút ngắn tới 67% thời gian so với quy định.

Riêng với 2 TTHC còn lại là thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế và thủ tục xác nhận nghĩa vụ thuế, Thái Nguyên mạnh dạn rút ngắn từ 5 và 3 ngày làm việc theo quy định xuống còn 3 và 2 ngày làm việc, bao gồm cả ngày bộ phận “một cửa” nhận hồ sơ.

Có thể dễ dàng nhận thấy, với quyết định này, cộng đồng người nộp thuế ở Thái Nguyên sẽ được hưởng thêm rất nhiều lợi ích cả về thời gian, công sức, trí lực và vật lực. Tuy nhiên với cán bộ thuế, cơ quan Thuế, trách nhiệm công vụ sẽ càng gia tăng. Dẫu vậy, Cục Thuế Thái Nguyên vẫn quyết tâm thực hiện, bởi đây là cách thức để các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và cơ quan Thuế trên địa bàn cộng đồng trách nhiệm, thực hiện có hiệu quả nghĩa vụ và trách nhiệm đối với NSNN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại đà nẵng Theo hướng này, Cục Thuế đã yêu cầu các phòng thuộc Văn phòng Cục Thuế tổ chức quán triệt đến từng cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp nhận và giải quyết TTHC thuế phải đảm bảo thực hiện đúng quy trình, thời gian giải quyết không được vượt quá số ngày đã quy định; tuyệt đối không được yêu cầu người nộp thuế nộp thêm bất cứ một loại hồ sơ, giấy tờ nào khác so với quy định. Cục Thuế cũng chỉ đạo các bộ phận có liên quan chủ động đề ra các giải pháp, tổ chức tập huấn kỹ năng giải quyết các TTHC thuế trong nội bộ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc. Riêng Phòng Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế có trách nhiệm công khai các TTHC có hiệu lực thuộc thẩm quyền giải quyết dưới nhiều hình thức, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và DN dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu và thực hiện các TTHC thuế. Đối với Chi cục Thuế các huyện, thành phố, thị xã, Cục Thuế yêu cầu tập trung rà soát, lập danh mục các TTHC thuế được rút ngắn thời gian giải quyết tại cơ quan Thuế với mục tiêu tạo thuận lợi cho người nộp thuế nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng quản lý.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại cầu giấy Để thể hiện quyết tâm với mục tiêu đã đề ra, Cục Thuế Thái Nguyên quy định rõ: việc rút ngắn thời gian giải quyết các TTHC thuế là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, đồng thời là một trong những tiêu chí bình xét thi đua, đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của các phòng và các Chi cục Thuế, do đó yêu cầu toàn ngành nghiêm túc triển khai, tổ chức thực hiện ngay để việc giải quyết các TTHC cho người nộp thuế được kịp thời, đúng quy định.

Với những nỗ lực không ngừng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế và chất lượng phục vụ người nộp thuế, Cục Thuế Thái Nguyên đang dần biến các chủ trương, định hướng lớn của ngành thành những hành động thiết thực, giàu tính thuyết phục. Đó cũng là cách để Cục Thuế bảo vệ vững chắc thành quả: luôn hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ chính trị được giao - Cục trưởng Nguyễn Văn Tiến khẳng định.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hà đông Theo tapchitaichinh
[Read More...]


Vướng mắc trong việc thực hiện Thông tư số 03/2009/TT-BTC




Tổng cục Thuế vừa nhận được công văn số 20379/CT-TTr4 ngày 11/8/2011 của Cục thuế TP. Hà Nội nêu vướng mắc về thuế theo quy định tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009 của Bộ Tài chính đối với trường hợp của Công ty cổ phần công nghệ thông tin, viễn thông và tự động hóa dầu khí PV TECH.

Về vấn đề này, Tổng cục Thuế đã có văn bản số 753/TCT-CS ngày 11/03/2013 gửi Cục thuế TP. Hà Nội. Theo đó, công văn của Tổng cục Thuế cho biết:

- Tại Điểm 1, Mục I, Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009 của Bộ Tài chính đã quy định:

“1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2009 theo hướng dẫn tại Mục II Thông tư này.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:

- Có vốn điều lệ ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư hiện đang có hiệu lực trước ngày 01 tháng 01 năm 2009 không quá 10 tỷ đồng; trường hợp doanh nghiệp thành lập mới kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 thì vốn điều lệ ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu không quá 10 tỷ đồng.

- Có số lao động sử dụng bình quân trong quý IV năm 2008 không quá 300 người, không kể lao động có hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, trường hợp doanh nghiệp thành lập mới kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2008 thì số lao động được trả lương, trả công của tháng đầu tiên (đủ 30 ngày) có doanh thu không quá 300 người”

- Ngày 05/11/2010 Bộ Tài chính đã có công văn số 15011/BTC-CST gửi Cục Thuế các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương về việc thực hiện chính sách ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ trong đó đã hướng dẫn với nội dung:

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức “Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng. Bộ Tài chính đề nghị Cục thuế các địa phương thực hiện một số việc như sau:

- Rà soát việc thực hiện chính sách giảm 30% số thuế TNDN phải nộp Quý IV năm 2008 và năm 2009 của các DNNVV tại địa phương để kịp thời phát hiện các trường hợp lợi dụng chính sách của Nhà nước, kê khai hưởng ưu đãi giảm thuế không đúng với quy định. Chú ý xem xét phát hiện các hiện tượng dồn thu nhập vào quý IV/2008 và năm 2009 để được hưởng ưu đãi; một số trường hợp doanh nghiệp có Quyết định công nhận là doanh nghiệp đặc biệt, doanh nghiệp loại I … nhưng vẫn sử dụng tiêu chí về lao động coi là DNNVV để kê khai, hưởng ưu đãi, trường hợp chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp không được hưởng ưu đãi sang doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế để trục lợi,…để kịp thời chấn chỉnh xử lý”.

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Căn cứ theo các quy định nêu trên, trường hợp của Công ty cổ phần công nghệ thông tin, viễn thông và tự động hóa dầu khí PV TECH là doanh nghiệp được xếp hạng II, nếu đáp ứng điều kiện là doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC nêu trên là doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC nêu trên thì vẫn được hưởng ưu đãi về giảm và gia hạn nộp thuế TNDN theo quy định.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại hai bà trưng Theo tapchitaichinh

[Read More...]


Tìm nhiều giải pháp gỡ khó thu ngân sách ở hải quan Hà Nội



Trong quý I/2013, Cục Hải quan Hà Nội đã thu ngân sách 2.478,9 tỷ đồng; đạt 15,6% kế hoạch được giao cả năm. Kết quả nêu trên phần nào thể hiện sự nỗ lực không ngừng của đơn vị trong những tháng đầu năm 2013. Tuy nhiên, để thực hiện đạt chỉ tiêu thu ngân sách 2013 - 11.670 tỷ đồng, tăng hơn 25% so với năm 2012, là một thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, Hải quan Hà Nội đã và đang tìm nhiều giải pháp gỡ khó khăn trong thu ngân sách.

Thách thức thu ngân sách

Nhìn vào thực tế hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn, Hải quan Hà Nội đã có những phân tích cụ thể về nguồn, khả năng thu ngân sách nhà nước (NSNN) trong năm 2013, trên cơ sở đó, giao kế hoạch phấn đấu cho các đơn vị. Dự toán năm 2013 của đơn vị cho thấy tình hình thực hiện nhiệm vụ thu NSNN là khác thách thức. Theo tính toán, tốc độ thu bình quân của quý I trong 3 năm trở lại đây (2010, 2011,2012) so với số thu cả năm là 23,5%. Số thu quý I/2013 đạt 2.478,9 tỷ đồng với tốc độ thu là 23,5%, ước số thu cả năm của đơn vị chỉ đạt khoảng 10.246 tỷ đồng.

Theo Hải quan Hà Nội, trong quý I/2013, các mặt hàng có kim ngạch lớn, chiếm đến 46% kim ngạch nhập khẩu chịu thuế, gần 45% số thu NSNN có xu hướng giảm đáng kể, ảnh hưởng đến số thu. Mặt hàng nhập khẩu chủ lực như: linh kiện và phụ tùng ô tô giảm 11%; linh kiện, phụ tùng xe máy giảm 33% so với năm 2012. Khó khăn nữa, đơn vị đang phải đối mặt là số thu ngân sách từ các doanh nghiệp (DN) lớn cũng ảnh hưởng đáng kể. Hiện đơn vị đang quản lý và phục vụ 44 DN lớn, chiếm hơn 42% số thu NSNN. Hoạt động của nhóm doanh DN lớn trong những tháng còn lại của năm 2013, sẽ ảnh hưởng quan trọng đến số thu NSNN của đơn vị.

Một nguồn lực nữa góp phần đóng góp cho số thu NSNN là thu đòi nợ thuế tình hình cũng không mấy sáng sủa, nợ khó thu ở mức cao. Tính đến cuối tháng 3/2013, số nợ chuyên thu tại các đơn vị trực thuộc Hải quan Hà Nội lên tới 617, 67 tỷ đồng. Trong đó nợ trong hạn là 317,4 tỷ đồng, nợ có khả năng thu là 132,9 tỷ đồng, nợ khó thu là 167,37 tỷ đồng. Trước thực tế này, Hải quan Hà Nội tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác thu đòi nợ thuế, gắn việc thực hiện truy thu thuế với công tác khen thưởng và quy trách nhiệm đến từng cá nhân tổ đội.

Nỗ lực khai thác mọi nguồn thu

Cục Hải quan Hà Nội cho biết, đơn vị đã và đang triển khai quyết liệt các giải pháp thu ngân sách, tập trung vào 4 nhóm chính.

Thứ nhất
, cải cách thủ tục hành chính, triển khai thủ tục hải quan điện tử theo Nghị định 87 của Chính phủ; tăng cường đối thoại tháo giỡ khó, vướng mắc cho DN về thủ tục xuất nhập khẩu.

Thứ hai
, triển khai các biện pháp tạo thuận lợi về thông quan hàng hóa, thu hút DN có trụ sở chính tại Hà Nội, thực hiện làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa tại Hà Nội. Đầu tháng 4/2013, Hải quan Hà Nội đã tổ chức hội nghị đối thoại với 36 đại lý làm thủ tục hải quan, bàn biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), góp phần tăng thu NSNN.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại bắc ninh Hiện nay, do địa bàn Hà Nội nằm sâu trong nội địa, hàng hóa làm thủ tục hải quan chủ yếu bằng phương thức chuyển tiếp từ các cảng biển, của khẩu đường bộ về Hà Nội (chiếm 68,3% tổng thu ngân sách). Giải pháp này hy vọng sẽ có thể khai thác đóng góp số thu đáng kể cho đơn vị.

Thứ ba
, tiếp tục triển khai dự án hiện đại hóa thu ngân sách liên thông giữa cơ quan Thuế-Kho bạc-Hải quan; thực hiện bảo lãnh thuế với ngân hàng thương mại bằng phương thức điện tử. Thực hiện hiệu quả dự án này sẽ mang lại nhiều lợi ích, kịp thời hạch toán tiền thuế vào NSNN, đảm bảo thông quan hàng hóa nhanh, không để xảy ra tình trạng DN đã nộp thuế, nhưng hệ thống thông báo của cơ quan nhà nước vẫn treo nợ…

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty trọn gói giá rẻ tại hà đông Thứ tư
, tăng cường khai thác và tăng thu từ công tác chống gian lận qua áp mã, giá hàng hóa, C/0, hàng tạm nhập tái xuất, kiểm tra các dự án đầu tư có số hoàn thuế lớn, kiểm tra sau thông quan, buôn lậu, gian lận thương mại.

Để tăng ngay số thu cho NSNN, trước mắt, Hải quan Hà Nội đã có báo cáo Tổng cục Hải quan và chờ sự chỉ đạo của Bộ Tài chính chỉ đạo việc thực hiện truy thu thuế kiểm tra sau thông quan đối với một số trường hợp có số thu lớn. Điển hình là trường hợp truy thu thuế 170 tỷ đồng đối với 3 DN nhập khẩu xăng dầu; truy thu Công ty Toyota 911 tỷ đồng vi phạm quy định C/0; truy thu thuế nhập khẩu linh kiện khoảng 346 tỷ đồng đối với Công ty Nissan…
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại thủ đức Theo tapchitaichinh
[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page